20-05-2025
Ngày 07/5/2025, Trường Đại học Tiền Giang tổ chức cuộc họp Hội đồng đánh giá kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Trường: “Ảnh hưởng của mật độ và hàm lượng đạm trong thức ăn đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chốt trắng (Mystus planiceps) trong quá trình ương giống” do Thạc sĩ Nguyễn Công Tráng – Giảng viên Khoa Nông nghiệp và Công nghệ Thực phẩm làm chủ nhiệm đề tài
Hội đồng đánh giá kết quả gồm: Tiến sĩ Cao Nguyên Thi, Phó Hiệu trưởng, Chủ tịch Hội đồng; và các thành viên khác, gồm Thạc sĩ Bùi Văn Mướp, Thạc sĩ Hồ Đại (Khoa Nông nghiệp và Công nghệ Thực phẩm), Thạc sĩ Nguyễn Thái Dương (Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Tiền Giang), Thạc sĩ Đặng Như Ngà (Phòng Quản lý Khoa học Công nghệ) Thư ký Hội đồng.
Trong nuôi thủy sản, mật độ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng, tỷ lệ sống, năng suất và hiệu quả kinh tế. Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của mật nuôi đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của một số đối tượng thủy sản đã được thực hiện. Cá lăng (Mystus wyckii) ương trong giai đặt trong ao đạt tăng trưởng và tỷ lệ sống cao nhất ở mật độ 300 con/m2 . Tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá thát lát còm (Chitala ornata) giai đoạn bột lên giống ương trong bể composite tốt nhất ở mật độ 3 con/L); hay tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá đối (Liza subviridis) đạt cao nhất khi ương trong giai mật độ 40 con/m3 . Các tác giả đều có cùng nhận định rằng khi tăng mật độ nuôi sẽ làm giảm tăng trưởng về khối lượng của cá.
Bên cạnh đó, thức ăn chiếm tỷ lệ cao từ 50 - 80% trong tổng chi phí nuôi cá . Hàm lượng đạm trong thức ăn đã được chứng minh là một thành phần dinh dưỡng không thể thiếu cho sự phát triển của cá (Serrano et al., 1992). Nhiều nghiên cứu trên các loài cá khác nhau cho thấy, khi cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm quá cao thì sẽ làm giảm tăng trưởng của cá cá trê (Clarias macrocephalus). Tương tự, nghiên cứu của Khan et al. (1993) cũng báo cáo tăng trưởng của cá lăng (Mystus nemurus) sẽ gia tăng khi cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm từ 27-42%, nhưng tăng trưởng sẽ giảm khi sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm cao hơn. Đối với cá chốt trắng, Lê Quốc Việt và ctv. (2014) cho rằng khi ương ấu trùng cá chốt với độ mặn 0-20‰ đạt tỷ lệ sống dao động 89,73-95,83% và hàm lượng đạm trong thức ăn khoảng 40% cho tốc độ tăng trưởng (6,2 % /ngày) và tỷ lệ sống tốt nhất với 99,33%.
Cá chốt trắng là một loài cá bản địa có giá trị kinh tế cao và đang có nhiều tiềm năng để phát triển ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) do cá có khả năng sống được trong môi trường nước ngọt, lợ và mặn. Tuy nhiên, nghề nuôi cá chốt trắng chưa được phát triển do còn gặp nhiều hạn chế về con giống cũng như các nghiên cứu về mật độ, loại thức ăn và khẩu phần thức ăn phù hợp trong quá trình ương và nuôi cá chốt trắng. Vì vậy, việc nghiên cứu xác định thức ăn có hàm lượng đạm phù hợp và mật độ ương nuôi thích hợp cho sự tăng trưởng, tỷ lệ sống và giảm giá thành sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu người ương nuôi cá chốt trắng là vấn đề rất cần thiết.
Mục tiêu của đề tài: Đánh giá ảnh của các loại thức ăn công nghiệp có các hàm lượng đạm khác nhau và mật độ ương khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chốt trắng giai đoạn từ cá bột đến cá hương (45 ngày tuổi); Đánh giá ảnh của các loại thức ăn công nghiệp có các hàm lượng đạm khác nhau và mật độ ương khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá chốt trắng giai đoạn cá hương (45 ngày tuổi) đến cá giống (105 ngày tuổi); Xác định hàm lượng đạm thích hợp trong thức ăn và mật độ ương thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất để ứng dụng thực tiễn trong ương cá chốt trắng ở giai đoạn từ cá bột đến cá hương (45 ngày tuổi) và giai đoạn từ cá hương (45 ngày tuổi) đến cá giống (105 ngày tuổi).
Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng đánh giá tốt kết quả của đề tài, tính hiệu quả của nhiệm vụ và nhất trí xếp loại "Tốt".
Như Ngà - Phòng QLKHCN&HTQT
Phòng Quản lý khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế